THỪA SAI CỦA CÁC THỪA SAI
Cha EUGÈNE LAROUCHE (1892-1978)
Bước chân Cứu Thế Thừa Sai,
Sử vàng lưu dấu, chẳng phai đời đời
Công ơn mở rộng Nước Trời
Bia lòng khắc cốt, vạn thời khắc tâm.
Dòng Chúa Cứu Thế đến Việt Nam vào năm 1925, đến nay đã gần 100 năm (Dòng sẽ mừng 100 năm hiện diện tại đất Việt vào năm 2025), với tinh thần "ôn cố tri tân", ta cùng nhìn lại gương mặt đã góp phần định hình nên DCCT trên mảnh đất Lạc Hồng. Đó là cha Eugene Larouche (1892-1978), cha là vị tông đồ nhiệt thành đã đóng góp cho sự hiện diện, trưởng thành và phát triển của DCCT VN. Cách cụ thể, trong việc thiết lập Đệ tử viện Huế và huấn luyện các thế hệ thừa sai người Việt đầu tiên. Cha được xem là NGƯỜI CHA NHÂN HẬU, VỊ SÁNG LẬP DCCT VN. Tuy đã ra đi, nhưng những di sản của cha còn sống mãi, đó là các thừa sai DCCT vẫn đang miệt mài trên cánh đồng truyền giáo.
Khởi đầu một ơn gọi
Cha EUGÈNE LAROUCHE là
người CHA NHÂN HẬU, ngài có tên Việt là: LÊ ĐỨC HIỀN. Sinh ngày
10 - 6 - 1892, tại Canada, trong gia đình có sáu người con: 4 người anh và 2
người chị. Ngài là con ông Luc Larouche và bà Celine Lachance. Cuộc đời của
ngài chứng kiến nhiều cuộc mất mát to lớn: 19 ngày tuổi mồ côi mẹ, tuổi thơ bất
hạnh mồ côi cha. Nhưng Thiên Chúa quan phòng đã chuẩn bị cho ngài một gia đình
lớn hơn. Đó chính là Dòng Chúa Cứu Thế. Dù được đùm bọc và yêu thương bởi những
người bà con, nhưng tuổi thơ ngài đã phải trải qua tháng ngày nghèo khó, cơ cực
như chính ngài viết: “Trong gia đình chúng tôi: sự nghèo khó ngự trị. Ở nhà
trường, kết quả việc học trong 4, 5 năm cũng tầm thường…” Thế rồi, một cuộc
gặp gỡ đã thay đổi hoàn toàn cuộc đời của ngài. Năm 1904, người dì đưa Eugene
về Montreal, tại đây cậu nhập đoàn Lễ sinh và giúp lễ cho các cha DCCT tại
Hochelaga, cha bề trên Fiset nhận thấy nơi cậu nhỏ Eugene một sự nhiệt thành
trong việc phục vụ nhà Chúa, nên hỏi cậu: “Con có muốn trở thành một linh
mục thừa sai, trên ngực đeo một cây Thánh giá lớn và đi giảng khắp nơi không?”.
Cậu đã đáp lại: “Thưa cha, có chứ”. Từ đó ý tưởng sẽ là một tu sĩ DCCT
in sâu trong tâm trí cậu. Rồi ơn Chúa quan phòng, ngày 1 - 5 - 1905, Eugene gia
nhập đệ tử viện Sainte Anne de Beaupre. Chính cha Fiset đã đưa Eugène Larouche
vào dòng và rộng tay giúp đỡ ngài về vật chất và coi ngài “như con của mình”.
Eugène
Larouche,
Người
cha Nhân hậu, xứng danh Đức Hiền,
Một
đời tôi tớ trung kiên,
Rạng
danh nước Chúa, loan truyền Phúc Âm.
Đời
Linh mục, chí thừa sai,
Dựng
xây dòng Thánh, tương lai sáng ngời
Canada,
cha ra đời,
Khó
khăn mất mát từ thời ấu thơ.
Mười
chín ngày, mẹ đi xa,
Lớn
thêm chút nữa, vắng cha thật rồi!
Tuổi
thơ sống kiếp mồ côi,
Bà
con đùm bọc, chăm nuôi họ hàng.
Chúa
Quan Phòng đã mở đàng,
Để
cha được biết cưu mang người nghèo,
Một
lòng ý Chúa vâng theo,
Nguyện
đem cuộc sống rắc gieo Tin Mừng.
Cuộc
đời cha bỗng sáng bừng,
Gặp
cha Fiset, lẫy lừng thừa sai,
Từ
đây quyết chẳng quản cai,
Ươm
mầm ơn gọi, sớm mai nguyện cầu.
Ý
tưởng dâng hiến ăn sâu,
Nhập
đoàn cứu thế, năm châu loan truyền.
Đệ
tử viện, sống sáu năm,
Larouche
đã quyết, chuyên chăm tu trì.
Sáu năm đệ tử viện
Sainte Anne de Beaupre
Đệ tử sinh Eugène
Larouche sống 6 năm ở đệ tử viện, từ năm 1905 - 1911. Tại đây, ngài nhận được
nơi vị giám đốc lúc ấy là cha Georges Daly một nền giáo dục nhân bản và tu sĩ
với khẩu hiệu “DUC IN ALTUM - RA KHƠI” và “EXCELSIOR -
HƯỚNG THƯỢNG”, đặc biệt là “tình gia thất” trong một gia đình là DCCT,
là Đệ tử DCCT. Đệ tử viện lúc đó thuộc nhiều dân tộc: Bỉ, Pháp, Balan,... giúp
ngài kinh nghiệm về sự khác biệt, nhất là về ngôn ngữ. Eugene xác tín rằng:
càng biết nhiều ngôn ngữ thì càng có khả năng và điều kiện để làm lợi ích hơn
và thi hành nhiệm vụ một cách tốt đẹp hơn. Nơi đây, cha Georges Daly còn tổ
chức nhiều Hội đoàn, câu lạc bộ văn chương, báo và tạp chí nội bộ.
Ngày
đêm vững bước đường đi,
Cậy
trông Đức Mẹ, khắc ghi Tình Trời,
Cùng
cha Georges “Ra khơi”
“Hướng
thượng” lên Chúa, rạng soi thế trần.
Thánh
thiện, đạo đức muôn phần,
Trau
dồi khoa thánh, tập tành đức nhân
Dẫu
rằng gian khó trăm lần,
Đức
tin kiên vững, vạn phần tươi xinh.
Tiến bước lên chức vụ
linh mục
Đệ tử sinh Eugène
Larouche đã xin và được chấp nhận về sau sẽ là thừa sai giữa những người
Ukraina tại miền Tây Canada. Tuy nhiên, Thiên Chúa đã có ý định khác về ngài.
Ngày 2 - 8 - 1911,
Eugène Larouche vào nhà tập tại Hochelaga. Vào thời gian đó, đã khấn là khấn
trọn chứ không có khấn tạm như sau này. Do đó, các thầy vừa khấn giữ các lời
khuyên Tin Mừng, vừa thề bền đỗ trong dòng cho đến chết. Eugène Larouche viết:
“Chúng tôi Trọn hiến mình cho Thiên Chúa và các linh hồn như một tu sĩ DCCT”.
Tập sinh Eugène Larouche đã cùng 5 khấn sinh khác tuyên khấn vĩnh viễn trong
DCCT ngày 8 -9 - 1912. Với quyết tâm trung tín đến cùng trong hiến dâng mình
cho Chúa, dù có bao nhiêu thử thách, ngài chỉ biết tín thác vào Chúa để bước
tới trên đường đã chọn.
Sau ngày khấn trọn đời,
thầy Eugène Larouche lên đường về Bayswater, Ottawa để hoàn tất 2 năm triết, 4
năm thần học. Đối với thầy, thời gian ở Học viện là thời gian hạnh phúc, với
việc học chiếm nhiều thì giờ, cùng với đời sống tu đức, những buổi cầu nguyện,
chia sẻ, vui chơi với khẩu hiệu: SOLI DEO et STUDIIS - Chỉ cho Thiên Chúa và
việc học. Tất cả việc đạo đức, việc học, giải trí đều hướng về đào tạo những tu
sĩ, linh mục thừa sai.
Ngày 22 - 7 - 1917, tại
Montreal, Eugène Larouche được đặt tay để trở thành linh mục. Sau khi thụ phong
linh mục, từ năm 1918-1925, cha được sai về làm phụ tá tại đệ tử viện Sainte
Anne de Beaupre dưới sự lãnh đạo của cha Louis Philippe Levesque.
Một
ngàn chín trăm mười hai,
Cùng
năm bạn hữu, sánh vai khấn dòng,
Một
lần khấn, là trọn đời,
Quyết
tâm theo Chúa, bằng lời khấn xin.
Một
xin Trinh bạch trung kiên
Hai
xin Nghèo Khó, bạc tiền chẳng ham,
Ba
xin Tuân phục việc làm,
Bốn
xin Bền đỗ, vững vàng khiêm cung.
Với
ơn Chúa đổ muôn trùng,
Bước
lên Thánh Chức, chí hùng Thừa sai,
Nhớ
tháng bảy, ngày hăm hai
Mở
ra Hồng phúc, tương lai sáng ngời.
Ơn
gọi nối tiếp ơn gọi,
Vườn
ươm đệ tử, rạng soi cha về,
Bảy
năm gian khó chẳng nề,
Bên
đoàn đệ tử trọn bề yêu thương.
HÀNH TRÌNH TRUYỀN GIÁO TẠI VIỆT NAM
Ngày 19-11-1924, sau khi
Tỉnh Mẹ Sainte Anne chấp nhận việc truyền giáo tại Đông Dương, cha Larouche đã
tự tay viết đơn xin đi truyền giáo và được chấp nhận.
Nhưng
Thánh Ý Chúa mở đường,
Để
Cha kiên quyết, chọn đường Thừa Sai,
Miền
Viễn Đông, vạn dặm dài
Một
đi nào biết, một mai có về?
Tinh
thần hăng hái chẳng nề,
Tự
tay ngài viết, gửi về lá thư,
Trình
bày nguyện vọng tâm tư,
Được
đi truyền giáo, hằng như Ý Trời.
Hồng
Ân Chúa, đến muôn đời,
Con
xin ca tụng bằng lời tán dương,
Cảm
tạ Thiên Chúa tình thương,
Dành
con cho Chúa, dặm trường vẫn vui.
Ngày
ra đi, lắm bùi ngùi,
Đông
người đưa tiễn, sụt sùi vấn vương,
Chí
Thừa sai, quyết lên đường,
Vì
yêu Thiên Chúa, can trường dấn thân.
Đem
Tin Mừng, đến ngàn dân,
Loan
tin Cứu Thế, thánh ân lan tràn,
Người
nghèo hưởng phúc bình an
Trời
Nam rực sáng muôn vàn phúc ân.
Đất
Việt ghi từng dấu chân
Đoàn
đoàn, lớp lớp, đem thân “Vào đời”
Khắc
ghi “Cứu Thế” cao vời,
Tin
Mừng loan báo, rạng ngời trần gian.
Năm 1925, các nhà Thừa
sai DCCT đặt chân đến Việt Nam và ngày 30/11/1925, các ngài đến Huế. Tại đây,
Đức Cha Allys đã ưu ái đón tiếp và cho các cha được lưu trú tại Tòa Giám Mục
Huế. Có thể nói, Đức Cha Allys là một “đại ân nhân” của DCCT tại Việt Nam. Sau
này, DCCT dời về đất An Cựu với tu viện mới khánh thành ngày 07/01/1929. Từ
buổi đầu, cha Larouche đã thao thức về tương lai của dòng tại Việt Nam, nên đã
nhanh chóng muốn thành lập Đệ tử viện Huế nhằm đào tạo thế hệ thừa sai tiếp nối
cho Giáo hội Việt Nam.
Ba
mươi, mười một, hai lăm
Thời
gian mới đó, hóa trăm năm rồi
Đón
ba Thừa sai, hỡi ôi!
Đức
Cha Allys bồi hồi tâm can.
Này
đây Mục Tử Chúa ban,
Cố
đô bỗng hoá thạch bàn đức tin
Đức
Cha xây dựng công trình
Là
giáo phận Huế thắm tình Chúa thương.
Đây
Dòng Thánh, tháng năm trường,
Đức
Cha nâng đỡ thắm hương tuyệt vời
Những
năm tháng, thuở đầu đời,
Lưu
lại Toà Huế ngời ngời nhớ ơn.
Rồi
ơn Chúa đổ vô vàn
Cho
dòng phát triển toả ngàn viễn phương
Cha
Larouche đến mọi đường
Chiêu
sinh ơn gọi, mở trường ươm hoa.
Ngày
đêm nức tiếng gần xa
Từng
đoàn, lớp lớp, ghé qua đăng trình
Thánh
Ý Chúa, làm phát sinh
Dựng
xây Đệ tử, hết mình chăm lo.
Đây
An Cựu, đất Chúa cho,
Xây
nhà Tu viện, lắng lo vơi phiền,
Xong
xuôi cha quyết làm liền,
Lập
nên Đệ tử, đầu tiên của Dòng.
Năm
ba mươi, đã làm xong,
Đệ
tử viện Huế, hết lòng Chúa thương
Thánh
ân tuôn xuống đủ đường
Cho
đàn con cái mười phương đến tìm.
Như
cánh phượng giữa muôn chim
An-phong
Đệ tử quả tim sáng ngời
“Tiên
Phong”, “Cứu Thế”, “Vào đời”
Quyết
tâm “theo Chúa”, đời đời “Hoan ca”.
Đệ
tử viện, sống bên cha
Hưởng
ơn giáo dưỡng, tình ca nhiệm mầu,
Là
nhà giáo dục cao sâu,
Cha
nên gương mẫu bền lâu vạn phần.
“Tiên phong tranh đấu Thiên Thần
Đua nhau mà giữ một lòng tinh anh
Biết rằng xác sạch mới thành
Mới mong giúp được sạch thanh linh hồn
Nên hằng lo giữ cho tròn
Sạch ngoài thân xác sạch trong linh hồn.”
Bề trên nhà Huế
Trong giai đoạn từ 11/1946-1950, cha được đặt làm bề trên nhà Huế, đây là giai đoạn rối ren trong lịch sử Việt Nam khi chiến tranh nổ ra giữa Việt Minh và Pháp, với việc Bảo Đại thoái vị. Bởi thế, khi nhận thấy nguy hiểm Nam Phương Hoàng Hậu đã cùng với các con đến trú ngụ tại tu viện DCCT Huế.
Nào
ai hiểu thấu càn khôn
Nước
Nam tranh đấu, sinh tồn khó khăn
Chiến
tranh vây bủa chung quanh
Phù
sinh trước gió như mành đung đưa.
Đáp
lời Thiên Chúa, cha thưa
Bề
trên nhà Huế, sớm trưa hết mình
Nhọc
lòng chẳng kể công linh
Cha
nên chỗ dựa an bình chở che.
Thánh
Ý Chúa, hằng vâng nghe
Một
lòng theo Chúa, chẳng e thập hình
Đây
Hoàng Gia, chốn thân tình
Tìm
nơi ẩn náu nương mình bình an.
Trong trách nhiệm đào
tạo Cứu Thế bên trong (Đệ tử viện), và Cứu Thế bên ngoài (Hội Ái Hữu Cựu Đệ
Tử), cha hằng luôn quan tâm, và nối kết với những người con trong gia đình Đệ
tử viện đã “vào đời” nên đã thành lập Hội Ái Hữu Cựu Đệ Tử nhằm đưa “tinh thần
Cứu Thế” đến khắp nơi.
Đến
khi già yếu sức tàn
Đệ
tử Ái Hữu, cơ man thành hình
Cha
già ý thức ân tình
Tinh
thần Cứu Thế, toả linh giữa đời.
Đệ
tử xưa, nay vào đời
Dựng
xây Nước Chúa, ngời ngời sáng tươi
Tin
Mừng đi với nụ cười
Cha
làm Linh hướng, làm người dẫn đưa.
Mặc dù chọn thuộc về
Tỉnh dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam, nhưng ngày 5/7/1976, ngài cùng với cha Olivier
bị chính quyền mới lệnh phải rời khỏi Việt Nam. Trên chuyến bay ngày
09/07/1976, cha đã rời khỏi Việt Nam mà không bao giờ có cơ hội trở lại. Dù
vậy, cha vẫn luôn hướng về Việt Nam. Bởi cha là “LÊ ĐỨC HIỀN”, người CHA
NHÂN HẬU, VỊ SÁNG LẬP DÒNG CHÚA CỨU THẾ tại VIỆT NAM.
Đây
đoàn con cái thân thưa
Nay
xin chép lại chuyện xưa ghép thành
Mượn
đôi câu chữ làm nhành
Hóa
nơi ghi nhớ ghép cành Cây Nho.
Thuở
xưa ơn Chúa ban cho
Cha
ươm vào đất, gốc nho mọn hèn
Dẫu
rằng dòng Thánh bao phen
Gốc
nho sinh trái, rễ len khắp miền.
Cha
rạng danh “Lê Đức Hiền”
Một
lòng theo Chúa triền miên mọi đàng
Giờ
đây ở chốn Thiên Đàng
Cầu
cho dưới thế lớp hàng Thừa Sai.
Một
là yêu Chúa bền gai
Hai
là xứng đáng Thừa Sai Chúa Trời
Ba
xin theo Chúa trọn đời
Bốn
xin được phúc Cửa Trời mai sau.
DỰ
TU DÒNG CHÚA CỨU THẾ SÀI GÒN
12/08/2024
Thông
Xanh (J.N.D.H)
Dựa theo cuốn “Cha Eugène Larouche CSsR” của cha Rôcô Nguyễn Tự Do
CSsR.
Nhận xét
Đăng nhận xét